Ngày nay khi xã hội ngày càng phát triển bên cạnh đó các bệnh xã hội cũng phát triển theo mà phổ biến nhất là HIV. Phơi nhiễm HIV do nghề nghiệp của nhân viên y tế là khá phổ biến, song không phải trường hợp phơi nhiễm nào cũng dẫn đến nhiễm. Đây là rủi ro mà mỗi nhân viên y tế phải đối diện.
Thông thường khi phát hiện một người hiễm HIV hầu hết mọi người đều xa lánh để hạn chế đến mức thấp nhất nguy cơ bị lây nhiễm từ người bệnh , nhưng phần đông mọi người không hiểu rằng không phải chất thải nào của người nhiễm điều lây bệnh, chúng chỉ có thể gây bệnh khi ta tiếp xúc với các chất dịch tiết có nguy cơ cao và con đường lây truyền cũng rất hạn chế. Vậy yếu tố nào có nguy cơ gây lây nhiễm:
Các dịch tiết cơ thể có nguy cơ lây nhiễm: máu, dịch âm đạo, tinh dịch và sữa mẹ. Các dịch cơ thể thông thường khác như mồ hôi, nước mắt, nước bọt, nước tiểu… được xem là không có nguy cơ lây nhiễm.
Vi rút HIV xâm nhập vào cơ thể chúng ta bằng dường nào:
- Vết thương hở, đâm xuyên da, tiếp xúc vào niêm mạc (mắt, mũi, miệng, âm đạo, hậu môn…).
- Lây nhiễm khi bà mẹ mang thai, cho con bú.
- Lây nhiễm khi quan hệ tình dục không an toàn với người nhiễn HIV.
Một khi chúng ta phát hiện mình có nguy cơ bị phơi nhiễm cần xử trí như thế nào?
Bước 1: Xử lý vết thương tại chỗ
Đối với tổn thương da dẫn đến chảy máu: Xối ngay vết thương dưới vòi nước chảy. Để vết thương tự chảy máu trong một thời gian ngắn mà không nặn bóp. Rửa kỹ bằng xà phòng và nước sạch, sau đó sát trùng bằng các dung dịch sát khuẩn (Dakin, Javel 1/10, hoặc cồn 700) trong thời gian ít nhất 5 phút.
Trường hợp phơi nhiễm qua niêm mạc mắt: Rửa mắt bằng nước cất hoặc nước muối NaCl 0,9% liên tục trong 5 phút.
Phơi nhiễm qua miệng, mũi: Rửa, nhỏ mũi bằng nước cất hoặc dung dịch NaCl 0,9 %. Xúc miệng bằng dung dịch NaCl 0,9 % nhiều lần.
Bước 2: Báo cáo người phụ trách và làm biên bản . Chú ý nêu rõ ngày giờ, hoàn cảnh xảy ra, đánh giá vết thương, mức độ nguy cơ của phơi nhiễm.
Bước 3: Đánh giá nguy cơ phơi nhiễm theo mức độ nông sâu của tổn thương và diện tích tiếp xúc.
Bước 4: Xác định tình trạng HIV của nguồn gây phơi nhiễm. Thông thường nhân viên y tế sẽ tư vấn cho những người bị phơi nhiễm nên tham gia xét nghiệm HIV. Trong tình huống người này đã biết về tình trạng nhiễm, cần thu thập thông tin liên quan đến điều trị ARV của họ.
Bước 5: Xác định tình trạng HIV của người bị phơi nhiễm bằng xét nghiệm.
Bước 6: Tư vấn cho người bị phơi nhiễm về nguy cơ nhiễm bệnh, điều trị dự phòng sau phơi nhiễm, thuốc và tác dụng phụ, quy trình theo dõi….
Bước 7: Điều trị dự phòng bằng thuốc ARV liên tục trong 4 tuần. Tất cả các trường hợp phơi nhiễm có nguy cơ cần được chỉ định điều trị ARV càng sớm càng tốt, từ 2-6 giờ tính từ lúc phơi nhiễm và không quá 72 giờ. Song song với việc đánh giá tình trạng HIV của nguồn gây phơi nhiễm và người bị phơi nhiễm, tùy trường hợp, bác sĩ có thể tiếp tục điều trị cho đủ 4 tuần hay ngưng đi.
Bước 8: Theo dõi bằng xét nghiệm kiểm tra sau một tháng, 3 tháng và 6 tháng. Trên bình diện cộng đồng, khi có phơi nhiễm, cần nhanh chóng thực hiện xử trí vết thương tại chỗ (nếu có) theo hướng dẫn trong bước 1. Tiếp đó cần nhanh chóng tiếp cận với cơ sở y tế có chuyên khoa nhiễm HIV ( như bệnh viện Bệnh Nhiệt đới, bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh thành, khoa tham vấn hỗ trợ cộng đồng). Nếu khai thác được thông tin từ nguồn gây phơi nhiễm, cần lưu ý đến phác đồ điều trị ARV của họ. Các bước còn lại của quy trình sẽ do nhân viên y tế tại cơ sở hỗ trợ. Điều trị ARV tuỳ trường hợp. Bên cạnh việc sơ cứu sau khi phơi nhiễm một số yếu tố tố ảnh hưởng lên hiệu quả của điều trị PEP bao gồm:
Sự chậm trễ tiếp cận với ARV. Theo khuyến cáo của WHO, liều ARV đầu tiên nên được sử dụng càng sớm càng tốt, trong vòng vài giờ đầu, có thể trước cả khi có kết quả xét nghiệm sàng lọc HIV theo quy trình. Càng chậm tiếp cận ARV, hiệu quả dự phòng càng giảm.
Sự kháng thuốc ARV của nguồn gây phơi nhiễm, do vậy, phác đồ điều trị PEP tốt nhất cần được điều chỉnh cho phù hợp với phác đồ mà bệnh nhân đang sử dụng (khuyến cáo là dùng thuốc khác với thuốc bệnh nhân đang dùng). Phác đồ ưu tiên cũng được thay đổi cho phù hợp với tỷ lệ kháng thuốc ARV lưu hành trong dân số. Ở Việt Nam, tỷ lệ kháng thuốc phác đồ 1 vẫn còn thấp, do vậy, phác đồ ưu tiên vẫn là phác đồ 1 cho các tình huống không rõ phác đồ ARV của nguồn gây phơi nhiễm.
Sự tuân thủ của người bị phơi nhiễm: Cần tuân thủ ARV trong suốt 4 tuần điều trị cũng như quy trình theo dõi sau điều trị.
Lưu ý:
Điều trị dự phòng sau phơi nhiễm chỉ nên sử dụng trong những tình huống tai nạn bất ngờ, chứ không phải là một biện pháp dự phòng lâu dài.
Khi phơi nhiễm xảy ra, tâm lý thoải mái là một yếu tố cần thiết. Tâm lý thoải mái giúp cơ thể đáp ứng tốt hơn với thuốc, hạn chế ảnh hưởng và tác dụng phụ của thuốc ARV lên đời sống và sinh hoạt.