TỔNG QUAN
Bệnh Alzheimer là một trong những nguyên nhân dẫn đến chứng giảm trí nhớ ( chiếm khoảng 60-80% ) là bệnh lý ảnh hưởng nghiêm trọng đến não bộ, nó tác động đến trí nhớ, tư duy, ngôn ngữ và hành vi của người bệnh Theo thống kê cho thấy trên thế giới có ít nhất 50 triệu người đang sống chung với bệnh Alzheimer hoặc các hội chứng sa sút trí tuệ khác. Theo Liên Hợp Quốc nếu không có những đột phá trong việc chẩn đoán , điều trị và phòng bệnh, tỷ lệ này có thể vượt quá 152 triệu người vào năm 2050, tính riêng ở Việt Nam tỉ lệ sa sút trí tuệ thống kê được khoảng 5% dân số trên 60 tuổi và tăng dần theo tuổi và hiện đang có xu hướng trẻ hóa. Trung bình người bệnh chỉ có thể sống được từ 8 – 10 năm kể từ khi mắc bệnh này. Tuy nhiên, vẫn có trường hợp có thể sống lâu hơn nếu được phát hiện và điều trị bệnh Alzheimer đúng cách.
NGUYÊN NHÂN CỦA BỆNH
Hiện nay giới khoa học vẫn chưa xác định rõ nguyên nhân gây ra bệnh alzheimer , các nhà khoa học chỉ có thể xác định, khi bệnh xuất hiện cũng là lúc các tế bào não có chức năng lưu trữ và xử lý thông tin bắt đầu bị suy yếu và chết. Ngoài ra, các protein bất thường được sản sinh ra, tạo nên những mảng bám và tích tụ quanh và bên trong các tế bào gây cản trở đến quá trình truyền dẫn truyền thần kinh và truyền tải thông tin từ các tế bão não bộ đến các cơ quan khác dẫn đến các rối loạn của bệnh Alzheimer
Ảnh: Não bộ của người bệnh Alzheimer
ĐỐI TƯỢNG MẮC BỆNH
Nguy cơ phát triển bệnh Alzheimer tăng lên theo độ tuổi, bắt đầu từ khoảng 65 tuổi và tăng dần vể sau. Các nghiên cứu chỉ ra rằng những người có các yếu tố sau có khả năng thúc đẩy bệnh hình thành và phát triển
- Bệnh tiểu đường;
- Stress, căng thẳng và phiền muộn kéo dài;
- Cholesterol cao, chế độ ăn ít rau xanh, hạn chế vận động
- Hút thuốc, nghiện rượu, sử dụng chất kích thích
- Ít giao tiếp xã hội, độc thân ,sống 1 mình
- Tuổi cao ( trên 65 tuổi ) , tuy nhiên đang có xu hướng trẻ hóa
- Tiền sử gia đình có người mắc Alzheimer ,mắc các bệnh về cấu trúc và rối loạn chức năng não.
DẤU HIỆU NHẬN BIẾT
Mười biểu hiện lâm sàng của bệnh theo tổ chức Alzheimer ( Alzheimer’s association )
- Tình trạng suy giảm trí nhớ làm xáo trộn cuộc sống hàng ngày
- Gặp khó khăn khi lặp kế hoạch hay giải quyết vấn đề
- Gặp khó khăn khi hoàn thành các công việc quen thuộc
- Lú lẫn về thời gian và nơi chốn
- Gặp khó khăn trong việc hiểu các hình ảnh trực quan và mối quan hệ trong không gian
- Phát sinh những khó khăn mới về từ ngữ khi nói hoặc viết
- Đặt đồ vật nhầm chỗ và mất khả năng hồi tưởng lại các bước
- Giảm khả năng phán đoán hay đánh giá kém
- Rút lui khỏi công việc hay hoạt động xã hội
- Tâm trạng và tính cách thay đổi
Các phương pháp tầm soát và đánh giá bệnh:
A. Đánh giá thay đổi chức năng thần kinh nhận thức
Dùng các test tầm soát để phát hiện suy giảm chức năng nhận thức. Các test MMSE, Mini-Cog và MoCA thường được sử dụng.
Thang điểm MMSE có điểm cắt chẩn đoán SSTT là 26. Ngoài biểu hiện lâm sàng, có thể chẩn đoán giai đoạn bệnh theo thang điểm MMSE (theo NICE 2011):
– Bệnh Alzheimer nhẹ: MMSE 21–26
– Bệnh Alzheimer trung bình: MMSE 10–20
– Bệnh Alzheimer trung bình nặng: MMSE 10–14
– Bệnh Alzheimer nặng: MMSE dưới 10
Ảnh: Thang điểm MMSE đánh giá tầm soát Sa sút trí tuệ
B. Đánh giá hoạt động sống hàng ngày
Các thang đánh giá hoạt động sống cơ bản (ADL- Activity of Daily Living) và nâng cao (IADL- Instrumental Activity of Daily Living) thường được sử dụng thông qua các hoạt động như ăn uống , tắm rửa, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân hoặc nâng cao hơn thông qua các hoạt động làm việc nhà, uống thuốc, sử dụng điện thoại,…
C. Đánh giá hành vi tâm thần
Hơn 80% bệnh nhân Alzheimer có biểu hiện rối loạn hành vi tâm thần như rối loạn cảm xúc như lo âu, trầm cảm, ảo giác, hoang tưởng , kích động.
Thang điểm đánh giá trầm cảm người già GDS (Geriatric Depression Scale) thường được dùng để tầm soát khả năng bệnh nhân bị trầm cảm.
Một bộ đánh giá trạng thái tâm thần kinh chi tiết và có giá trị thường được dùng trong các nghiên cứu là bộ NPI (Neuropsychiatric Inventory) và bộ câu hỏi thu gọn NPI-Q (Neuropsychiatric Inventory Questionnaire) thường được dùng trên lâm sàng.
VAI TRÒ CỦA CẬN LÂM SÀNG TRONG BỆNH ALZHEIMER
Sinh học phân tử và di truyền học
Từ khi khoa học xác định được vai trò của amyloid b42 và tau-protein trong sinh bệnh của Alzheimer ,hiện nay sự thay đổi của các chất này trong dịch não tủy được dùng trong các chẩn đoán và nghiên cứu bệnh Alzheimer cũng như xét nghiệm gen đột biến bAPP, PS-1, PS-2 được chỉ định cho các trường hợp sa sút trí tuệ sớm dạng Alzheimer khởi bệnh sớm để giúp chẩn đoán xác định
Hình ảnh học trong chẩn đoán:
Vai trò của CT,MRI
CT Scan não chỉ dùng để chẩn đoán loại trừ các nguyên nhân khác bệnh Alzheimer như đột quỵ não,tụ máu dưới màng cứng…
MRI là chỉ định thường quy khi nghi ngờ bệnh Alzheimer, để đánh giá teo não lan tỏa đặc biệt phát hiện teo thùy thái dương trong trong chẩn đoán bệnh Alzheimer giai đoạn sớm.
Vai trò của PET scan
Ở các bệnh nhân Alzheimer, sự suy giảm sử dụng glucose, được xác định bởi FDG PET, có tính chất tiến triển, liên quan với mức độ nặng của sa sút trí tuệ.
ĐIỀU TRỊ BỆNH NHƯ THẾ NÀO
Đây là một căn bệnh rất phức tạp và không thể điều trị khỏi hoàn toàn bằng việc dùng thuốc hoặc biện pháp can thiệp hỗ trợ nào khác. Những cách tiếp cận hiện tại tập trung vào việc giúp người bệnh duy trì chức năng tâm thần, kiểm soát hành vi và làm chậm một số biểu hiện của bệnh.
A. Thuốc duy trì chức năng tâm thần
Những loại thuốc sử dụng điều trị bệnh Alzheimer mức độ trung bình đến nặng hoạt động bằng cách điều chỉnh chất dẫn truyền thần kinh, các chất hóa học truyền thông điệp giữa các tế bào thần kinh giúp giảm các triệu chứng và giải quyết một số vấn đề về hành vi. Tuy nhiên, những loại thuốc này có thể cho hiệu quả đối với một số người nhưng không phải tất cả mọi người và có thể chỉ hữu ích trong một thời gian giới hạn.Các thuốc trong nhóm này bao gồm thuốc kháng men cholinestarase ( Donepezil, Galantamine, Rivastigmine ), Memantine, Ginkobiloba.
B. Thuốc kiểm soát hành vi
Các triệu chứng hành vi phổ biến của bệnh Alzheimer bao gồm mất ngủ, đi lang thang, lục lội đồ đạc, kích động,… Nghiên cứu đã chỉ ra rằng, điều trị các triệu chứng hành vi có thể làm cho những người mắc bệnh thoải mái hơn và giúp người chăm sóc cảm thấy nhẹ nhàng hơn. Cả các thuốc chống loạn thần nhóm cổ điển và nhóm mới đều làm giúp kiểu soát hành vi, đặc biệt Risperidone đã cho thấy có tác dụng tốt trong kích động/hung hăng và rối loạn tâm thần. Tuy nhiên, các thuốc chống loạn thần có các tác dụng phụ quan trọng và có tiềm năng có hại vì vậy nên được sử dụng một cách thận trọng ở liều thấp, và trong một khoảng thời gian ngắn nhất cần thiết.
C. Nghiên cứu thử nghiệm phương pháp điều trị mới
Nghiên cứu về bệnh Alzheimer đã phát triển đến mức các nhà khoa học đang tìm cách để trì hoãn hoặc ngăn ngừa căn bệnh này cũng như điều trị các triệu chứng của nó. Một số nghiên cứu về các liệu pháp điều trị bằng thuốc nhằm vào nhiều mục tiêu khác nhau, bao gồm protein beta-amyloid, chức năng mạch máu não, mất khớp thần kinh và các chất dẫn truyền thần kinh cụ thể, cũng như các can thiệp chẳng hạn như hoạt động thể chất, chế độ ăn uống, rèn luyện nhận thức và sự kết hợp của những các phương pháp tiếp cận.
CHĂM SÓC NGƯỜI BỆNH ALZHEIMER NHƯ THẾ NÀO ?
Để chăm sóc tốt cho người bệnh Alzheimer, người nhà cần hiểu rõ từng giai đoạn của bệnh cụ thể:
Giai đoạn nhẹ
Ở giai đoạn này,người bệnh gặp khó khăn một chút trong việc tự quản lý cuộc sống của mình, nhưng họ thường vẫn có thể sống độc lập,hành vi , cảm xúc và tâm trạng có thể thay đổi .Ở giai đoạn này người nhà và cả bệnh nhân hãy dành thời gian để tìm hiểu bệnh,vai trò của người chăm sóc là hỗ trợ người bệnh thông qua những cuộc nói chuyện, tư vấn một cách tình cảm và nhẹ nhàng. Lúc này người bệnh cũng khó để hoàn thành các công việc sinh hoạt bình thường như lái xe, nấu nướng… vì vậy hãy ở bên hỗ trợ hoặc thay họ thực hiện những công việc này.
Giai đoạn trung bình
Những người mắc bệnh thường không thể tự lập. Họ vẫn có thể tự ăn, uống và tắm rửa, và có thể làm những công việc đơn giản xung quanh nhà nhưng có thể phải được nhắc nhở như nấu ăn, mua sắm, vệ sinh nhà sạch sẽ và đi dạo khi có sự giúp đỡ của người khác.
Họ dễ bị lạc, không tìm được đường trở về nhà, để bếp lửa không tắt và gây nguy hiểm cho bản thân hoặc người khác. Các kiểu hành vi như đi tới đi lui, lục lọi trong ngăn kéo và loay hoay mua quần áo một cách vô thức trở nên thường xuyên hơn. Những cơn tức giận, nghi ngờ thậm chí là hành vi hung hăng với người khác cũng là hậu quả của các vấn đề liên quan đến bệnh Alzheimer ảnh hưởng đến nhận thức của người bệnh và hạn chế khả năng của họ.
Bên cạnh đó, giai đoạn này, người bệnh trở nên khó khăn hơn khi diễn đạt mọi thứ bằng lời và hiểu những gì người khác nói. Họ cũng nhầm lẫn quá khứ với hiện tại.
Ở giai đoạn này, có thể bạn sẽ cần dành toàn bộ thời gian để chăm sóc người bệnh.
Giai đoạn nặng
Ở giai đoạn này, bệnh đã trở nặng và người bệnh cần sự giúp đỡ liên tục từ người khác. Các vấn đề về lời nói và ngôn ngữ có thể bắt đầu khiến cuộc trò chuyện gần như không thể thực hiện được. Bây giờ họ thậm chí cần được giúp đỡ để hoàn thành các hoạt động đơn giản hàng ngày như ăn uống, vệ sinh cá nhân.
Lúc này, người bệnh thường xuyên nhầm lẫn quá khứ với hiện tại. Họ không còn nhận ra những người mà họ từng biết rất rõ. Việc kiểm soát các chức năng cơ thể và khả năng phối hợp vận động cũng có thể bị hạn chế.
Ở giai đoạn này, việc chăm sóc tại nhà có thể không đủ đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe với bệnh nhân, Vì vậy những người chăm sóc có thể cân nhắc việc chăm sóc người bệnh kết hợp các dịch vụ chăm sóc chuyên nghiệp ở cơ sở điều dưỡng chuyên môn hoặc cơ sở chăm sóc bệnh sa sút trí tuệ, nơi có thể giám sát và quản lý đầy đủ.
CÁCH PHÒNG BỆNH
Bệnh Alzheimer xảy ra do tiến trình lão hóa não bộ theo thời gian và tuổi tác. Tuy nhiên, bệnh có thể đến sớm hay muộn, mức độ trầm trọng hay giảm nhẹ là do lối sống và sinh hoạt của chúng ta. Do đó, có nhiều cách để phòng ngừa bệnh đến sớm và kiểm soát biến chứng nguy hiểm như:
1. Phòng ngừa các bệnh tim mạch
Theo nghiên cứu, 80% người bị Alzheimer có các vấn đề liên quan đến bệnh tim mạch.
Đồng thời phòng ngừa và quản lý tốt bệnh tim mạch sẽ giúp cải thiện chất lượng cuộc sống của người bệnh tốt hơn.
2. Thường xuyên tập thể dục, vận động đều độ
Với người bệnh Alzheimer, việc tập thể dục có thể giúp trì hoãn các triệu chứng. Việc vận động phù hợp với thể lực, lứa tuổi có thể khiến máu và oxy dồi dào lên nuôi dưỡng não, làm chậm quá trình thoái hóa của tế bào não, ngoài ra còn giúp người bệnh giảm căng thẳng.
3. Tránh gặp các chấn thương vùng đầu
Khảo sát cho thấy có một mối liên hệ rõ ràng giữa chấn thương đầu nặng với khả năng mắc Alzheimer về sau, đặc biệt là các chấn thương dẫn tới bất tỉnh. Vì vậy nên bảo vệ vùng đầu và tránh những chấn thương không đáng có.
4. Ăn uống khoa học
Một thực đơn cân bằng nhóm chất dinh dưỡng gồm nhiều rau và trái cây tươi, ngũ cốc nguyên hạt, dầu thực vật và các chế phẩm từ sữa… giúp tăng cường sức khỏe cơ thể và não bộ. Lưu ý hạn chế ăn các loại thịt đỏ và đường,các chất kích thích như rượu, bia thuốc lá ,…
5. Vệ sinh giấc ngủ hợp lý
Chất lượng giấc ngủ tốt giúp ngăn Alzheimer đến sớm và tiến triển trầm trọng. Bởi vì trong lúc ngủ, não bộ sẽ tiến hành “vệ sinh” các synapse để việc truyền tin được thông thoáng, lọc bỏ những ký ức không cần thiết, và dọn bớt amyloid β để không tạo mảng vón.
Ảnh: minh họa tập thể dục đều đặn giúp ngăn ngừa bệnh Alzheimer
Khi có vấn đề gợi ý bệnh lý Alzheimer có thể đến bệnh viện Tâm thần Bến Tre để giúp chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời.